• Awesome Blogging Theme!
  • Active Yoga Class

Vũ khi tấn công - Bàn chân (Bal) - Chân (Dari)

Bàn chân (Bal) - Chân (Dari)

      Nhờ có hai chân con người mới có thể duy trì được thăng bằng của cơ thể khi đi, di chuyển, quay vòng, nhảy cao, nhảy xa, đá… Trong tập luyện và thi đấu Taekwondo chân được sử dụng với rất nhiều chức năng và mục đích khác nhau tùy thuộc vào “vũ khí” và kỹ thuật được lựa chọn. Ví dụ: bàn chân (Bal) thường được sử dụng để thực hiện các kỹ thuật tấn công trong khi các bộ phận dài hơn khác của chân lại được sử
dụng cho hoạt động phòng thủ.
     So với các đòn tay và các đòn đấm thì các đòn chân trong môn võ Taekwondo luôn đòi hỏi phải được thực hiện với một tốc độ, sự khéo léo và độ chính xác cao hơn, điều mà chỉ có thể có được thông qua quá trình luyện tập lâu dài và gian khổ. Khi vận động viên thực hiện một đòn đá (Chagi) thì anh ta sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc duy trì thăng bằng của cơ thể với một chân còn lại và nếu khả năng giữ thăng bằng không tốt thì chắc chắn là anh ta sẽ ngã xuống sàn hoặc thực hiện hỏng kỹ thuật tấn công. Tương tự như vậy khi nhảy lên thực hiện đòn đá bay (Twiochagi) nếu khả năng giữ thăng bằng không tốt thì vận động viên chắc chắn sẽ ngã xuống sàn và không thể thực hiện được hiệu quả kỹ thuật tấn công… 
     Cho dù tương đối phức tạp khi thực hiện và luôn đòi hỏi những yêu cầu rất cao, nhưng các đòn đá trong môn võ Taekwondo vẫn luôn thể hiện rõ tính ưu việt của mình, bởi vì trong mọi trường hợp đòn đá đều tạo ra được một sức công phá và một lực đánh mạnh hơn bất cứ một kỹ thuật tấn công nào khác, đồng thời nó lại có thể được thực hiện trong bất cứ khoảng cách nào. Vì vậy các vận động viên phải đặc biệt chú ý và nỗ lực cố gắng để thực hiện các kỹ thuật này, đồng thời cũng phải luôn ghi nhớ rằng đối với các đòn đá: “Tốc độ càng lớn hiệu quả càng cao”.
a. Đá bằng ức bàn chân (Apchuk). 
* Vũ khí sử dụng (điểm chạm): Toàn bộ phần ức bàn chân, bao gồm cả phần gốc của các ngón chân trong trường hợp các ngón chân được bẻ cong lên. 
* Sử dụng: Ức bàn chân được sử dụng để thực hiện các kỹ thuật như: Đá tống trước (Apchagi), đá vòng cầu (Dollyochagi), Đá nghịch vòng cầu (Biteurochagi), đá nghịch (Badalchagi)… Ngoài ra ức bàn chân còn được sử dụng làm điểm tựa khi xoay thân người và là điểm tạo đà, khống chế chuyển động của cơ thể khi di chuyển. 
b. Phần dưới của gót chân (Dwichuk). 
* Vũ khí sửdụng (điểm chạm):Toàn bộ phần dưới của gót chân.
* Sử dụng: Phần dưới của gót chân chủyếu được sử dụng để làm điểm tựa khi xoay người,  để thực hiện các kỹ thuật như giẫm, đạp (Jitziki), đá tống ngang (Yopchagi) và đá xúc (Podeochagi). 
c. Mũi bàn chân (Balkkeut). 
* Vũ khí sử dụng (điểm chạm): Toàn bộ đầu của các ngón chân khi chúng được duỗi thẳng căng vềphía trước. 
* Sử dụng: Mũi bàn chân thường được sửdụng để thực hiện kỹ thuật đá xúc (Podeochagi) với lực bật mạnh của khớp gối, biến thế của đòn đá tống trước (Apchagi) và đá vòng cầu nghịch (Biteorochagi). Kỹ thuật này thường được các vận động viên có trình độ cao sử dụng để đá vào háng hoặc vào huyệt đan điền của đối phương. Đòn đá được thực hiện với mũi bàn chân chụm lại và duỗi thẳng về phía trước. Do đây là một đòn đá nguy hiểm uy hiếp trực tiếp đến tính mạng của đối phương cho nên khi sử dụng các vận động viên cần phải đặc biệt chú ý. 
d. Cạnh ngoài bàn chân (Balnal). 
* Vũ khí sửdụng (điểm chạm): Toàn bộ thiết diện của cạnh ngoài bàn chân, phần ở giữa mu và lòng bàn chân kéo dài từ đầu ngón chân út đến hết phần gót sau.
* Sử dụng: Cạnh ngoài bàn chân chủyếu được sử dụng để thực hiện đòn đá tống ngang (Yopchagi), các kỹ thuật chặn, đỡ (Makki) và  đòn đá chặn phản công (Badachagi). 
e. Cạnh trong bàn chân (Balnaldeung). 
* Vũ khí sử dụng (điểm chạm):Toàn bộ phần cạnh trong bàn chân (phần giữa lòng bàn chân và mu bàn chân) kéo dài từ cạnh trong của ức bàn chân đến hết phần gót sau. 
* Sử dụng: Cạnh trong bàn chân chủyếu được sử dụng để thực hiện kỹ thuật đá tạt từ ngoài vào (Pyojeokchagi) hoặc là các kỹ thuật  phòng thủ (Makki). 
f. Phần sau của gót chân (Dwikkumchi). 
* Vũ khí sửdụng (điểm chạm):Toàn bộ phần sau của gót chân. 
* Sử dụng: Phần sau của gót chân chủyếu được sử dụng để thực hiện các kỹ thuật như:  Đá chẻ (Naeryochagi), quay người  đá vòng liên tục (Momdollyo Huryochagi) và đá quặp (đá móc câu) (Nakkachagi). 
g. Lòng bàn chân (Balbadak). 
* Vũ khí sử dụng (điểm chạm): Toàn bộ phần lòng bàn chân từ phần dưới của gót chân đến đầu các ngón chân (ban gồm cả phần ức bàn chân).
* Sử dụng:Lòng bàn chân chủyếu được sử dụng để thực hiện các đòn đá như: Đá chẻ(Naeryochagi), quay người đá vòng liên tục (Momdollyo Huryochagi). 
h. Mu bàn chân (Baldeung). 
* Vũ khí sử dụng (điểm chạm):Toàn bộ phần mu của bàn chân kéo dài từ cổ chân đến đầu các ngón chân. Kỹ thuật này thường được thực hiện với bàn chân duỗi thẳng căng. 


* Sử dụng: Mu bàn chân thường được sử dụng để thực hiện các đòn đá như: Đá vòng cầu (Dollyochagi), đá thốc (Ollyochagi) và đá vòng liên tục (Huryochagi). 
2. Chân (Dari). 
     Phần chân ở đây được giới hạn từ mép dưới của khung xương chậu đến khớp cổ chân và thường được sử dụng để thực hiện các kỹthuật phòng thủ nhờvào độ dài và độ rắn chắc của nó. Tuy nhiên phần chân cũng rất dễ bị chấn thương khi được sử dụng để đỡ các đòn tấn công của đối phương. Ví dụ khi sửdụng cẳng chân để đỡ các đòn đá của đối phương thì chắc chắn vận động viên sẽ cảm thấy đau đớn và nếu đòn tấn công của đối phương quá mạnh thì rất có thể sẽ dẫn đến chấn thương. Vũ khí được sử dụng hiệu quả nhất trong phần chân là đầu gối do độ rắn chắc của nó. Trên thực tế đầu gối thường được sử dụng để thực hiện các đòn đánh (Chigi), đặc biệt là các đòn đánh thốc (Mureup Ollyochigi) và đánh vòng ngang (Mureup Dollyochigi). Vũ khí sửdụng chủyếu của phần chân là đầu gối (Mureup) và cẳng chân (Jeonggangwi).






read more →

Vũ khí tấn công - Cẳng tay (Pal)

Cẳng tay (Pal). 

     Trong kỹ thuật Taekwondo, cẳng tay được sử dụng với những chức năng và mục đích rất khác nhau. Ví dụ: cùi chỏ thường được sử dụng để tấn công trong khi cổ tay thì chủyếu lại được sử dụng để thực hiện các kỹ thuật phòng thủ. 
a. Cùi chỏ(Palkup). 
     Cùi chỏ (Khủy tay) chủ yếu được sử dụng để tấn công đối phương trong các khoảng cách gần thông qua các đòn đánh như: Đánh cùi chỏvòng ngang (Palkup Dollyochigi), đánh thốc cùi chỏ(Palkup Ollyochigi), đánh vào hạ đẳng hoặc cạnh sườn (Palkup Naeryochigi), đánh ngang từ trong ra (Palkup Yopchigi) và đánh cùi chỏ về sau (Palkup Dwichigi). 
b. Cổtay (Palmok). 
     Cẳng tay là một bộ phận tương đối to và dài của cơ thểvà vì vậy nó rất phù hợp cho việc thực hiện các kỹ thuật phòng thủ. Trong số các vũ khí được sử dụng trên cẳng tay thì cạnh trong và cạnh ngoài của cổ tay là các vũ khí thường được sử dụng để thực hiện các đòn tấn công ngay sau một kỹ thuật phòng thủ của một bộ phận khác. Tuy nhiên, cho dù rất phù hợp cho việc thực hiện các kỹ thuật phòng thủ, nhưng do dẳng tay và cổ tay có thiết diện tương đối lớn và không thể chịu đựng được một lực tác động mạnh, cho nên rất dễ dẫn tới nguy cơ bị sai khớp hoặc gãy xương nếu đòn tấn công của đối phương quá mạnh. 
     Các vũ khí chủ yếu được sử dụng trên cẳng tay bao gồm: Cạnh ngoài cổ tay (Bakkatpalmok), cạnh trong cổ tay (Anpalmok), cạnh trên cổ tay (Deungpalmok) và cạnh dưới cổ tay (Mitpalmok). 



read more →

Vũ khí tấn công - bàn tay (Son)

 Bàn tay (Son). 

     Trong kỹ thuật Taekwondo bàn tay (Son) được hiểu là bàn tay trần với các ngón tay khép chặt và hơi gập lại ở đốt xương thứ ba. Vũkhí sửdụng (điểm chạm) trong kỹthuật này lớn gấp đôi so với kỹ thuật Jumeok và cũng biến đổi đa dạng tùy thuộc vào kỹthuật sửdụng và mục tiêu tấn công. 
a. Cạnh ngoài bàn tay (Sonnal) 
* Hình tay:Trước hết khép chặt 4 ngón tay lại và hơi gập ở đốt xương thứ nhất của các ngón tay. Sau đó gập ngón cái ở đốt xương thứ hai và ép chặt vào lòng bàn tay với đầu ngón tay hướng về phần gốc của ngón trỏ. 
* Vũ khí sửdụng (điểm chạm):Toàn bộ cạnh ngoài bàn tay tính từ đầu của ngón tay út đến cạnh ngoài cổ tay. 
* Những điều cần chú ý: Khi thực hiện kỹ thuật Sonnal, lưng bàn tay nhất thiết phải cùng nằm trên một đường thẳng với mặt ngoài cẳng tay. Tuyệt đối không được bẻ bàn tay lên, xuống vào trong hay ra ngoài… 
* Sửdụng:Kỹthuật Sonnal được thực hiện cả ởtrong kỹ thuật phòng thủ (Makki) và trong các đòn đánh (Chigi). 
b. Cạnh trong bàn tay (Sonnal Deung). 
* Hình tay: Cũng tương tự như trong kỹ thuật Sonnal nhưng ngón cái được ép chặt và đưa sâu hơn vào lòng bàn tay. 
* Vũ khí sửdụng (điểm chạm): Đốt xương thứhai của ngón tay cái và phần gốc của ngón tay trỏ. 
* Những điểm cần chú ý: Phải ép chặt và đưa ngón tay cái dấu vào trong lòng bàn tay. 
* Sử dụng: Kỹthuật này chỉ được sửdụng đểthực hiện các đòn đánh (Chigi). 
c. Lưng bàn tay (Sondeung). 
* Hình tay: Cũng thực hiện tương tự như kỹ thuật Sonnal nhưng trong kỹ thuật  này các ngón tay được giữ tương đối lỏng hơn. 
* Vũ khí sử dụng:Toàn bộphần sau của các ngón tay và mu bàn tay. 
* Sửdụng: Kỹ thuật này chủyếu được sử dụng để thực hiện các đòn đánh (Chigi) để tấn công chóp nhoáng trong một khoảng cách gần. Tuy nhiên trên thực tế kỹ thuật này thường không được coi là một đòn tấn công quan trọng. 
* Chú ý:Khi thực hiện kỹ thuật lưng bàn tay (Sondeung) cần phải tận dụng triệt để lực xoay của hông. 
d. Ba đầu ngón tay (Pyonsonkkeut). 
* Hình tay: Cũng thực hiện tương tự như kỹ thuật Sonnal chỉkhác là đầu ngón tay của ba ngón trỏ, giữa và áp út phải sát cạnh nhau và phải cùng nằm trên một đường thẳng. 
* Vũ khí sử dụng (điểm chạm): Đầu ngón tay của ba ngón trỏ, giữa và áp út. 
* Sử dụng: Kỹthuật này chủyếu được sửdụng đểthực hiện các đòn xỉa. Tuy nhiên, đôi lúc nó cũng được dùng đểchặt, chém (Hulkki). 


Nếu đầu các ngón tay được luyện tập một cách cẩn thận thì kỹ thuật này sẽ trở thành một đòn tấn công cực kỳ hiệu quả vào các điểm trọn yếu trên cơ thể đối phương với khoảng cách tấn công xa hơn các đòn đấm. Tùy thuộc vào kỹ thuật sửdụng đòn Pyonsonkkeut thường được thực hiện bằng ba tưthếchính là: Xỉa dọc (Sewun Pyonsonkkeut), Xỉa úp (Upeun Pyonsonkkeut), Xỉa ngửa (Jechi Pyonsonkkeut). 
e. Ức bàn tay (Batangson)
* Hình tay:các ngòn tay khép hờ, từ từ nâng và ngửa lòng bàn tay lên phía trên, cổ tay và các ngón tay hơi gập nhưng không được giữ quá căng. 
* Vũ khí sửdụng (điểm chạm):Toàn bộphần ức bàn tay. 
* Sử dụng:Kỹthuật này thường được sửdụng đểthực hiện các đòn đánh (Chigi). 
Do điểm chạm có thiết diện quá lớn, cho nên kỹ thuật này thường không được sử dụng để tấn công vào các điểm trọng yếu trên cơ thể đối phương mà nó chỉ được sử dụng để thực hiện các đòn gạt đỡ (Makki) 
* Bàn tay còn được sửdụng đểthực hiện các kỹ thuật khác như: Hai đầu ngón tay (Kawisonkkeut), một  đầu ngón tay (Hansonkkeut), Hai đầu ngón tay chụm (Moundusonkkeut), ba đầu ngón tay chụm (Mounsesonkkeut), năm đầu ngón tay (Modumsonkkeut), tay gấu (Komson), đánh bằng cổtay gập (Kuppinsonmok), đánh bằng hổkhẩu (Agwison).




read more →

Vũ khí tấn công - Nắm đấm (Jumeok)

Nắm đấm (Jumeok)

     Nắm đấm được tạo nên bởi các ngón tay khép sát và cuộn chặt lại. Trong môn võ Taekwondo nắm đấm được chia làm 6 loại tùy thuộc vào kỹ thuật sử dụng bao gồm: Đấm thẳng (Jumeok),  lưng nắm đấm (Deung Jumeok),  cạnh ngoài nắm đấm (Mejumeok), nắm đấm lồi (Bamjumeok) (đánh bằng đốt xương thứhai của ngón trỏ hoặc ngón giữa), đấm dẹt(Pyonjumeok) (đánh bằng đốt xương thứ hai của ngón trỏ, ngón giữa và ngón áp út) và gọng kìm (Jipkejumeok) (ngón cái và ngón trỏ tạo thành hình gọng kìm). 

    * Đấm thẳng (Jumeok): 
     Đấm thẳng (Jumeok) là hình thức đơn giản nhất của đòn đấm với các ngón tay khép sát và cuộn chặt lại trong lòng bàn tay và chỉsửdụng đốt xương thứnhất của ngón trỏvà ngón giữa đểthực hiện đòn đánh. 
     - Những điều cần chú ý khi thực hiện đòn Jumeok: 
+ Cổtay phải giữthẳng và phải tạo thành một đường thẳng từcườm tay đến mặt trong của cẳng tay. 
+ Đốt xương thứnhất của ngón trỏvà ngón giữa phải cùng nằm trên một mặt phẳng với mặt ngoài của cẳng tay và phải vuông góc với lưng bàn tay (phần trên đốt xương thứnhất của ngòn trỏvà ngón giữa). 
     Để thực hiện đúng được đòn đấm này thì cũng không phải là điều dễdàng vì vậy các vận động viên phải hết sức chú ý và nỗlực cốgắng khi thực hiện động tác.
     - Vũ khí tấn công (điểm chạm): 
     Đốt xương thứnhất của ngón trỏvà ngón giữa. 
    - Cách nắm tay đểthực hiện đòn Jumeok: 
+ Duỗi thẳng bàn tay với 4 ngón tay khép chặt và ngón cái chĩa thẳng lên, sau đó từ từcuộn chặt 4 ngón tay lại bắt đầu từ đốt xương thứba vào lòng bàn tay. 
+ Ngón cái gập ở đốt xương thứ hai và đè chặt lên ngón trỏ và ngón giữa. 
- Sử dụng: 
      Trong kỹthuật Taekwondo, Jumeok chỉ được thực hiện trong các đòn đấm như: đấm thẳng vào mặt (Olgul Jireugi), đấm móc (Chi Jireugi), đấm vòng (Dollyo Jireugi). 

* Các biến thế khác của đòn Jumeok. 
     Ngoài các kỹ thuật đã nêu trên, đòn Jumeok còn có những biến thế khác như: đấm dọc (Sewojireugi), đấm ngửa (Jechojireugi), đấm ngửa hai tay (Dujumeok Jechojireugi). Nếu mục tiêu ở gần thì nên thực hiện đòn đấm ngửa (Jechojireugi) còn nếu mục tiêu ởxa thì nên áp dụng đòn đấm dọc (Sewojireugi). 






read more →

Mục tiêu tấn công trong Taekwondo


MỤC TIÊU TẤN CÔNG TRONG MÔN TAEKWONDO
    
 Taekwondo là nghệ thuật chiến đấu đặc sắc và là một phương tiện hữu hiệu để tự hoàn thiện bản thân.Thông qua quá trình luyện tập các vận động viên có thể thực hiện một cách chính xác các động tác kỹ thuật với một tốc độ và lực đánh tối đa, đồng thời có thể tự củng cố, hoàn thiện vềtinh thần thông qua việc rèn luyện sức mạnh ý chí và tăng cường khả năng tập trung vào các công việc đang tiến hành. Vận động viên có thể tăng cường sức mạnh thể chất thông qua việc luyện tập kỹ, chiến thuật và củng cố sức mạnh tinh thần để điều khiển hoạt động của toàn bộ cơ thể, đồng thời nâng cao ý thức về sự công bằng để có thể trở thành một con người ngay thẳng, có nhân cách với những đức tính quý báu như: tính độc lập, tựchủvà khả năng kiềm chế trước những ảnh hưởng tác động của môi trường… 


     Trước khi bước vào luyện tập, vận động viên nhất thiết phải xác định rõ được động cơ và mục đích tập luyện của mình, bởi vì nếu không có những mục tiêu cụ thể và rõ ràng thì chắc chắn quá trình huấn luyện sẽ trởn ên vô nghĩa. Cũng giống như trong cuộc sống hàng ngày các vận động viên Taekwondo chỉ thực sự cảm thấy vui vẻ và hạnh phúc khi họ đạt tới được các mục tiêu cụ thể đã được đề ra. Vì vậy, trong quá trình huấn luyện tất cảcác vận động viên nhất thiết đều phải nổ lực cốgắng tối đa để thực hiện một cách chính xác và mạnh mẽ tất cả các động tác kỹ thuật như đấm (jireugi), đá (chagi), gạt đỡ(Makki)… đồng thời phải luôn ghi nhớ tới những mục tiêu cụ thể mà họ đã đề ra. 

Hình 1: Mục tiêu tấn công và các điểm trọng yếu trên cơ thể

     Điều đầu tiên mà các vận động viên Taekwondo cần phải biết và phải luôn ghi nhớ là các điểm trọng yếu (yếu huyệt) trên cơ thể, những điểm mà luôn gây ra cảm giác đau đớn ngay cả khi chỉ phải chịu một lực tác động rất nhỏ vào (do tại các điểm này hệthống dây thần kinh đã được tập trung dày đặc dưới da). Trên thực tế trong cơ thểcó khoảng 280 điểm trọng yếu có thể trở thành mục tiêu tấn công, nhưng trong phạm vi cuốn sách này chúng tôi chỉxin trình bày 34 điểm nằm trên ba phần lớn của cơ thể con người là: đầu, phần thân trên và pần dưới thân. Trong 34 điểm này có 3 điểm quan trọng nhất và có thể ảnh hưởng trực tiếp tới tính mạng của con người đó là: huyệt nhân trung ở phần đầu, mỏác ở phần thân trên và huyệt đan điền ở phần thân dưới. 

     Trong suốt quá trình tập luyện vận động viên nhất thiết phải hình dung là có một đấu thủtưởng tượng đang đứng trước mắt mình để thực hiện các kỹ thuật tấn công vào các điểm trọng yếu (theo đúng luật) trên cơ thể của anh ta và thực hiện các kỹ thuật phòng thủ trước các đòn tấn công của đối thủ tưởng tượng đó vào các điểm trọng yếu trên cơ thể của mình. 


read more →

Lịch sử môn Taekwondo


LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN 
MÔN TAEKWONDO TRÊN THẾ GIỚI VÀ TẠI VIỆT NAM

     Lịch sửphát triển của môn Taekwondo có thể được chia ra làm 4 giai đoạn là: thời kỳcổ đại, thời kỳtrung cổ, thời kỳhiện đại và sựphát triển của môn Taekwondo trong giai đoạn hiện nay.

     I. LỊCH SỬPHÁT TRIỂN CỦA MÔN TAEKWONDO TRONG THỜI KỲCỔ ĐẠI:

     Loài người khi mới sinh ra đã mang trong mình bản năng sinh tồn đểduy trì nòi giống và cuộc sống của bản thân mình và vì vậy dù vô tình hay hữu ý thì điều này đã thúc đẩy loài người hướng tới hoạt động thểchất trong suốt cuộc đời của mình. Một thực tếrõ ràng là dù ở bất cứ đâu và trong bất cứthời điểm nào thì con người vẫn không thểthực hiện được những công việc hàng ngày nếu thiếu các hoạt động thểchất và hoạt động này đã giúp con người không ngừng trưởng thành, phát triển và hoàn thiện. Trong thời kỳcổ đại, con người đã không có một phương tiện nào khác ngoài hai bàn tay và sức mạnh thểchất để tự bảo vệ bản thân mình và vì vậy một cách rất tựnhiên họ đã sáng tạo ra những kỹthuật chiến đấu bằng tay. Khi hai bàn tay đã trở thành một phương tiện đểtấn công và phòng thủthì con người đã tiếp tục củng cố, hoàn thiện hệ thống kỹ thuật này để tăng cường sức mạnh thểchất và mang ra trình diễn tại các cuộc thi đấu ở các bộ lạc.  

     Vào thời kỳsơkhai trên bán đảo Triều Tiên có ba bộlạc cùng tồn tại, phát triển và các bộlạc này đều tổchức các cuộc thi đấu võ thuật giữa các võ sĩkhi bắt đầu bước vào một vụmùa mới.

     Vào thời điểm này, thông qua thực tiễn chiến đấu chống lại loài ác thú và quá trình hệ thống, phân tích các miếng đánh và thếthủcủa các con vật này, con người đã sáng tạo ra những kỹthuật chiến đấu đặc sắc và người ta cho rằng những kỹ thuật chiến đấu này là nền tảng cơ bản của môn võ Taekwondo ngày nay, môn võ mà tên gọi của nó được hình thành từcác từ“Subak”, “Taekkyon” và “Takkyon”. 

     Vào cuối thời kỳcổ đại, ba triều đại là Koguryo, Paekje và Silla đã được hình thành trên bán đảo Triều Tiên và kểtừ đó các cuộc chiến tranh đểtranh giành quyền lực đã liên tiếp xảy ra. Cảba triều đại này đều cốgắng tăng cường sức mạnh quốc gia bằng cách đào tạo nên những chiến binh quảcảm, tih thông võ nghệvà vì vậy lịch sửTriều Tiên đã gọi thời đại này là thời kỳquân quyền với đa số các nhà lãnh đạo nổi tiếng của các triều đại là các quân nhân. 

   Điều này đã dẫn tới kết quả là các chiến binh trẻ đã được tập hợp lại thành các lực lượng như“Hwarangdo” trong triều đại Silla và “Chouisonin” trong triều dại Koguryo và đối với họ việc rèn luyện võ thuật là một trong các nội dung huấn luyện chủyếu. Một cuốn sách võ thuật nổi tiếng thời đó đã viết: “Nghệ thuật chiến đấu đối kháng là nền tảng cơbản của võ thuật đương thời và mục đích chủyếu của nó là giúp người tập tăng cường sức mạnh của bản thân mình thông qua việc sửdụng hiệu quả các kỹthuật đòn tay và đòn chân, đồng thời thông qua quá trình huấn luyện một cách có hệ thống giúp người tập có thểdễdàng ứng biến và đối phó với các tình huống nguy hiểm xảy ra trong cuộc sống”. 

   Trên thực tế điều này lại hoàn toàn phù hợp với các tiêu chí và mục đích huấn luyện của môn võ Taekwondo và vì vậy có thểnói rằng: Taekwondo đã được bắt nguồn từcác bộlạc trên bán đảo Triều Tiên.  

     II. LỊCH SỬPHÁT TRIỂN CỦA MÔN TAEKWONDO TRONG THỜI TRUNG CỔ: 

     Tiếp nối truyền thống của triều đại Silla, triều đại Koryo đã tiến hành tái hợp nhất bán đảo Triều Tiên và đã tồn tại, phát triển suốt từ năm 918 sau công nguyên cho đến tận năm 1392. Dưới triều đại này môn võ Taekkyon đã được phát triển một cách có hệ thống và đã trở thành một nội dung kiểm tra bắt buộc đểtuyển chọn các chiến binh. 

     Trong giai đoạn này Taekkyon đã trởthành một vũkhí tựvệhiệu quảvà có thể trong nháy mắt cướp đi mạng sống của một con người. Trong quân đội một hệ thống các bài tập chung đã được thiết lập đểgiúp các chiến binh có thểdễdàng ứng dụng trong thực tếchiến đấu với tên gọi là “5 bài tập Taekkyon dành cho quân nhân” (Obyong Subak Hui). 

      Trong giai đoạn đầu của triều đại Koryo trình độvõ thuật là yếu tốcơbản nhất để lựa chọn các quân nhân do nhà vua muốn tăng cường sức mạnh phòng thủ của quốc gia sau khi đã tái hợp nhất bán đảo Triều Tiên. Trong sốcác binh sĩ, người nào có trình độTaekkyon cao hơn sẽ được đề bạt làm chỉhuy và vì vậy các chàng trai trẻ đã nô nức tham gia vào các trận thi đấu Taekkyon, nơi mà các kỹnăng có thể sẽ biến họ trở thành các sĩ quan. 

     Cũng trong thời điểm này đã xuất hiện các trọng tài trong các trận thi đấu Taekkyon và điều này đã chứng tỏ rằng môn thểthao Taekwondo đã được hình thành trong giai đoạn này. Các nhà sử học của triều đại Koryo đã ghi lại rằng: “Tại buổi trình diễn vềsức mạnh công phá của môn võ Taekkyon, võ sư Lee Yi Min đã sử dụng bàn tay phải đấm đổ một cột nhà và làm lung lay các cột khác. Ngay sau đó một võ sư khác cũng sửdụng bàn tay của mình để đấm xuyên qua một bức tường dày bằng đất sét”. 

     Do nhà vua tỏra đặc biệt thích thú đối với các trận đấu Taekkyon, cho nên các trận thi đấu này thường xuyên được tổchức ởbất cứnơi nào nhà vua có mặt khi thực hiện chuyến tuần du của mình và điều này đã giúp cho môn Taekkyon được truyền bá sâu rộng trong quảng đại dân chúng. 

     Tuy nhiên vào cuối triều đại Koryo việc phát minh ra thuốc súng và các vũ khí cầm tay tiện lợi đã làm cho người ta ít quan tâm hơn đến việc luyện tập võ thuật. Song môn võ Taekkyon vẫn được lưu truyền như là một môn thểthao thi đấu trong dân gian và vẫn tiếp tục được truyền bá, phát triển trong triều đại Chosun. 

     III. LỊCH SỬPHÁT TRIỂN CỦA MÔN TAEKWONDO TRONG THỜI HIỆN ĐẠI: 

     Lịch sửhiện đại của Triều Tiên được đánh dấu bằng sự hình thành và phát triển của triều đại Chosun (hay còn gọi là Yi từnăm 1392 đến năm 1910). Trong suốt thời kỳ thống trị của phong kiến Triều Tiên và thời kỳ đô hộ của phát xít Nhật kéo dài tới tận năm 1945 thì môn võ Taekwondo thường được gọi là “Subakhui” thay cho tên gọi “ Taekkyon” và nó đã mất đi sự ủng hộcủa chính quyền trung ương bởi vì hệ thống phòng thủquốc gia đã được trang bị các vũ khí tối tân hơn.

     Do triều đại Chosun được hình thành dựa trên hệtưtưởng của đạo Khổng, cho nên nó đã bãi bỏnhững nghi lễcủa đạo Phật và coi trọng văn hóa, nghệthuật hơn là võ thuật. Tuy nhiên sử sách trong triều đại Koryo vẫn ghi lại các câu chuyện về các trận đấu “Subakhui” được các chính quyền địa phương tổ chức để tuyển lính hoặc phục vụcho các nhu cầu của nhà vua và các lễ hội lớn của quốc gia. Môn võ này vẫn có một vai trò trong hệ thống quốc phòng và các binh sĩsẽ được phép gia nhập các trường đào tạo sĩ quan nếu họ giành được chiến thắng trong ba trận thi đấu Subakhui. 

     Tuy nhiên, khi chính quyền đã được củng cố, các quan chức lại tỏra quan tâm nhiều hơn tới các loại vũ khí tấn công thay vì phải chú ý tới khả năng phòng thủ của mình và vì vậy việc luyện tập võ nghệ đã ngày càng bị xao nhãng. 

     Chỉ đến năm 1592, sau thất bại nhục nhã trước cuộc xâm lăng của Nhật Bản thì các quan chức của triều đại Jungjo mới bắt đầu tiến hành khôi phục lại sức mạnh phòng thủ của quốc gia bằng việc tăng cường huấn luyện vềquân sựvà võ thuật. Cũng trong thời điểm này cuốn sách võ thuật nỏi tiếng “Muyedobo-tongji” đã được xuất bản với tập 4 mang tựa đề“Hệthống kỹ thuật đòn tay” bao gồm 38 động tác cơ bản được thực hiện tương tự như một số bài quyền và kỹ thuật cơ bản của môn Taekwondo ngày nay. 

     Trong thời kỳ đô hộcủa phát xít Nhật, một sốnhà văn nổi tiếng của Triều Tiên như: Shin Chae Ho và Choi Nam Sun đã đềcập tới việc luyện tập môn võ Taekwondo như sau: “Môn Subakhui đang được truyền bá tại Seoul hiện nay chính là môn võ đã được các chiến binh luyện tập từthời Koguryo… Ngày xưa nó được coi trọng và được luyện tập như là một môn võ thuật thì giờ đây nó chỉlà một trò chơi hấp dẫn của trẻ em”. 

    Tuy vậy chính quyền đô hộNhật Bản cũng ngăn cấm cảviệc thực hiện “trò chơi” này nhằm đàn áp và đè bẹp tinh thần quật khởi của nhân dân Triều Tiên. Bất chấp sựđe dọa của phát xít Nhật, các võ sư vẫn bí mật truyền bá môn võ Taekkyondo (Taekwondo) cho tới tận ngày Triều Tiên giành được độc lập vào năm 1945. Một trong số các võ sưnày là ông Song Duk Ki, học trò của võ sưnổi tiếng Im Ho người đã được biết đến với các kỹnăng tuyệt đỉnh của mình “Nhảy bay qua tường cao và chạy xuyên qua hàng rào gươm giáo”. 

     Vào thời điểm này 14 kỹthuật cơbản đã được đưa vào sửdụng bao gồm: 5 đòn đá cơbản, 4 đòn tay, 3 đòn đá bằng gót chân, 1 đòn đá quay sau và 1 đòn đá quét. Thuật ngữ“Poom” cũng được đưa vào sử dụng để chỉ tư thếchuẩn bị mặt đối mặt trước khi bước vào thi đấu. Tuy nhiên các võ sư trong giai đoạn này luôn phải đối mặt với nguy cơ là sẽ bị chính quyền đô hộNhật Bản bắt giam và điều này đã kìm hãm sự phát triển và làm suy yếu môn võ Taekkyondo (Taekwondo). 

IV. SỰPHÁT TRIỂN CỦA MÔN TAEKWONDO TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY: 

     Vào cuối thếkỷ19, quân đội Hàn Quốc suy yếu, người Nhật đô hộ đất nước. Sự áp bức của đếquốc Nhật đối với dân Hàn Quốc rất hà khắc và việc tập luyện võ thuật được xem nguồn gốc của sự nổi loạn bịcấm đoán. Sau khi giành được độc lập từ tay của phát xít Nhật vào năm 1945, nhân dân Triều Tiên bắt đầu khôi phục lại tinh thần tự cường và lại tiếp tục truyền bá, hoàn thiện môn võ thuật truyền thống của mình. 

     Ngay lập tức các võ sư đã đua nhau mởcác lò huấn luyện Taekwondo trên khắp đất nước và sau khi cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950 – 1953) kết thúc, số lượng các võ sĩ đạt đẳng cấp “đai đen” đã trởnên rất nhiều. Cũng vào thời điểm này khoảng 2.000 võ sư Taekwondo đẳng cấp cao đã được cử tới hơn 100 nước để giúp các quốc gia này phát triển môn võ Taekwondo. 

     Vào tháng 9/1961, Hội Taekwondo Hàn Quốc được thành lập. Tháng 10/ 1963, Taekwondo đã trởthành môn thi đấu chính thức lần đầu tiên tại Đại hội ThểThao Quốc Gia. Vào những 1960, huấn luyện viên Hàn quốc bắt đầu ra nước ngoài phổ biến Taekwondo. Đây là bước ngoặt trong lịch sử phát triển của môn võ này. Năm 1971 Taekwondo đã được công nhận là môn thểthao thi đấu quốc gia và năm 1972 trụ sở Kukkiwon đã được khởi công tiến hành xây dựng. Một năm sau vào ngày 28 tháng 05 năm 1973 Liên đoàn Taekwondo Thế giới đã được thành lập. Cũng trong năm này Giải vô địch Taekwondo Thế giới lần đầu tiên được tổchức và từ đó trở đi Giải được định kỳtổchức 2 năm 1 lần.

      Năm 1974 lần đầu tiên Taekwondo đã được đưa vào thi đấu chính thức tại Đại hội thể thao Châu Á. Năm 1975 Taekwondo đã được Hiệp hội Điền kinh nghiệp dưMỹ(AAU) và Tổng Hiệp hội các Liên đoàn Thểthao Quốc tế(GAISF) công nhận là môn Thểthao thi đấu chính thức và một năm sau nó cũng đã được Ủy ban Thểt hao Quân đội Quốc tế(CISM) công nhận. 

     Năm 1979 Chủtịch của Liên đoàn Taekwondo Thếgiới (WTF) đã được bầu là Chủtịch của các Liên đoàn Thểthao phi Olympic. 

      Năm 1980 Liên đoàn Taekwondo Thếgiới (WTF) đã được Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC) công nhận và điều này đã biến Taekwondo trởthành môn Thểthao Olympic. 

     Sau đó Taekwondo còn được đưa vào thi đấu chính thức tại Cúp Thếgiới năm 1981, Đại hội Thểthao toàn Phi năm 1986… 

   Hiện nay Liên đoàn Taekwondo Thếgiới có 166 quốc gia thành viên toàn thế giới, với khoảng 50.000.0000 người tập luyện. Taekwondo được công nhận là môn thi đấu giành huy chương tại Thếvận hội Olympic Sydney 2000 và 2004.  

     V. LỊCH SỬPHÁT TRIỂN CỦA MÔN TAEKWONDO ỞVIỆT NAM: 

     Năm 1962 Taekwondo chính chức được du nhập vào miền Nam nước ta bắt đầu bằng các chuyến lưu diễn của các đoàn Taekwondo Triều Tiên và việc mở các lớp giảng dạy chính thức tại Sài Gòn do thầy Kim Boang Son đảm nhiệm. Khóa học đào tạo huấn luyện viên Taekwondo đầu tiên cho người Việt Nam được tổ chức tại Trường Võ thuật Thủ Đức với sựtham gia của 63 võ sinh do võ sư Nam Tac Hi (Huyền đai đệ nhất đẳng) phụtrách. Sau đó, theo kếhoạch các khóa 2, 3 cũng được tiếp tục tổchức và lúc này con số huấn luyện viên được đào tạo ra đã lên tới vài trăm người. Sau khi tốt nghiệp, những huấn luyện viên này đã trở v ềlại địa phương của mình để mở lớp huấn luyện và do tính quần chúng, tính khoa học cao của môn võ, đồng thời do yêu cầu, điều kiện để tổ chức một lớp học khá đơn giản cho nên bộ môn này đã phát triển một cách nhanh chóng và sâu rộng trong quảng đại quần chúng, đặc biệt là tầng lớp thanh thiếu niên và học sinh.

     Giải vô địch Taekwondo Nam kỳ lần thứ nhất được tổ chức vào năm 1965 đã thu được thành công rực rỡ và điều này đã dẫn tới việc định kỳ tổ chức các giải vô địch và các giải thi đấu Taekwondo lớn  ởmiền Nam Việt Nam. Năm 1966 Tổng cuộc Thái cực đạo miền Nam được thành lập để chỉ đạo và định hướng cho sự phát triển của phong trào Taekwondo Việt Nam. Bên cạnh những chức năng hoạt động chủyếu Tổng cuộc còn phải đảm nhận việc tổ chức các kỳ thi chuyển cấp, lên đai cho các huấn luyện viên và các môn sinh, công việc mà trước đây đều do các Hội đồng giám khảo với thành phần là các võ sư Hàn Quốc đảm nhiệm. 

    Chỉ sau 5 năm hoạt  động (đến năm 1968) sốngười tham gia tập luyện Taekwondo đã lên đến hơn 108.000 người, tăng gần gấp 2.000 lần và trong giai đoạn này công tác đào tạo, huấn luyện đã được thực hiện song song ở cả trong 3 hệ thống là: Quân đội, trường học và các võ đường tư nhân. Điều này đã dẫn đến kết quả là ngay trong lần đầu tiên ra quân tham dựgiải Vô địch Taekwondo Châu Á tại Hồng Kông năm 1969, đoàn tuyển thủ Taekwondo miền Nam Việt Nam đã đoạt 7 huy chương vàng, 2 huy chương bạc và 3 huy chương đồng. Khi miền Nam được giải phóng, tổ quốc được thống nhất, thểdục thểthao nói chung và môn võ Taekwondo nói riêng đã có điều kiện thuận lợi đểphát triển mạnh mẽ cả về bề rộng lẫn chiều sâu. 

     Năm 1977 được sự đồng ý của Sở TDTT Thành phố HồChí Minh, một chương trình biểu diễn, giới thiệu về môn võ Taekwondo đã được tổchức tại nhà thi đấu Phan Đình Phùng và nó đã tao ra được một ấn tượng đặc biệt đối với lãnh đạo Ngành và khán giả hâm mộ.  

     Ngày nay trong công cuộc đổi mới của đất nước, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, xã hội, Thểthao Việt Nam nói chung và môn võ Taekwondo nói riêng cũng đã phát triển nhanh, mạnh mẽ và đã đạt được những thành tựu đáng khích lệtại các kỳ SEA Games, các giải thi đấu trong khu vực và Châu Á, Olympic.

     Ngày nay, Taekwondo trởthành một trong sốcác môn Thể thao mũi nhọn của Thể thao Việt Nam trên đấu trường Quốc tế. Được sựquan tâm và đầu tư đúng hướng của ngành TDTT nước ta, Thể thao Việt Nam nói chung và môn võ Taekwondo nói riêng đang ngày một phát triển và bước đầu đã có sự đầu tư vềv ật chất và nghiên cứu khoa học mạnh mẽ để tiến tới giành được những thứ hạng cao hơn nữa tại các giải thi đấu trong khu vực, Châu Á và Thế giới.


Nội dung sẽ tiếp tục được cập nhật..........
read more →